22 Tháng Mười Một 20126:36 CH(Xem: 25013)
mo
- Mơ, mơ ta, mơ mai, mơ Đông Á, mơ Nhật Bản, mai mơ, mai (danh pháp hai phần: Prunus mume) là một loài thuộc chi Mận mơ (Prunus) có nguồn gốc châu Á thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Tiếng Nhật gọi mơ là ume (kanji: 梅 - mai; hiragana: うめ), tiếng Trung là méi (梅: mai) hay méizi (梅子: mai tử),[1] và tiếng Triều Tiên là maesil (hangul: 매실; hanja:梅實 - mai thực). Loài cây này có nguồn gốc từ miền Nam Trung Quốc (lưu vực sông Dương Tử), sau này lan sang Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Nó được trồng để lấy quả và hoa. Mơ là loài cận chủng với hạnh (mơ châu Âu - Prunus armeniaca). Không nhầm lẫn với các loài khác cũng có tên gọi chung là mai (ví dụ họ Ochnaceae) hay mơ (ví dụ mơ tam thể Paederia scandens).

- Loài mơ này ra hoa vào cuối mùa đông-đầu mùa xuân, thông thường là cuối tháng 1 hay đầu tháng 2 ở khu vực Đông Á, trước khi ra lá. Mỗi hoa có 5 cánh với đường kính khoảng 1–3 cm. Thông thường hoa có màu trắng, mặc dù một số giống cây trồng có thể có hoa màu hồng hay đỏ sẫm. Lá xuất hiện gần như ngay sau khi các cánh hoa rụng. Các lá hình ô van nhọn mũi. Quả chín vào đầu mùa hè, thông thường khoảng tháng 6 ở Đông Á. Tại Trung Quốc, mùa quả chín trùng với mùa mưa tại khu vực Giang Nam, 'nên người ta gọi giai đoạn này là ”mai vũ” (梅雨), còn trong tiếng Nhật gọi là baiyu hay tsuyu. Các quả tròn với đường xoi chạy từ cuống tới chóp quả. Vỏ quả có màu xanh lục khi chưa chín và trở thành màu vàng (đôi khi hơi đỏ) khi chín. Cùi thịt có màu vàng.

*Các giống mơ*

Việt Nam
- Ở Việt Nam, mơ mọc nhiều ở vùng Tây Bắc (Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai) và vùng rừng núi quanh chùa Hương Tích (Mỹ Đức, Hà Nội). Song người ta còn thấy chúng xuất hiện ở nhiều nơi khác ở miền Bắc Việt Nam. Mơ ở Việt Nam có nhiều loại. Về đặc điểm hoa, loại hoa trắng (bạch mai) thường phổ biến hơn loại hoa đỏ (hồng mai). Về đặc điểm quả, mơ được chia thành nhiều loại như: mơ đào, mơ nứa, mơ bồ hóng, mơ chấm son, mơ Vân Nam... Ở làng Đông Mỹ (Thanh Trì, Hà Nội) có giống mơ hoa và quả thường kết từng đôi gọi là Song Mai.

Nhật Bản
- Tại Nhật Bản, các giống mơ cảnh được phân loại thành các kiểu yabai (nghĩa là "mơ dại"), hibai ("mơ đỏ") và bungo ("tỉnh Bungo"). Kiểu bungo cũng được trồng để lấy quả và có lẽ là loại cây lai ghép giữa mơ ta và mơ châu Âu. Kiểu hibai có gỗ lõi màu đỏ và phần lớn có hoa màu đỏ. Kiểu yabai còn được sử dụng cho mục đích làm gốc ghép trong trồng trọt.

Trung Quốc
- Tại Trung Quốc có trên 300 giống cây trồng được công nhận cho loài mơ này, chúng có thể được phân chia theo màu sắc thành các kiểu trắng, hồng, đỏ, tía, lục nhạt. Một vài thứ khá nổi tiếng vì các giá trị làm cây cảnh của chúng, ví dụ như 大红梅: ("đại hồng mai"), Taige mei, Zhaoshui mei ("Chiếu thủy mai"), Lü'e mei ("Lục ngạc mai"), 龙游梅: ("Long du mai").

- Do mai có thể sinh tồn trong một thời gian dài nên có rất nhiều cây mai cổ thụ ở khắp Trung Quốc. Tại huyện Hoàng Mai, tỉnh Hồ Bắc có cây mai 1.600 năm tuổi, có từ thời nhà Tấn (265–420) và hiện nay vẫn còn ra hoa mỗi năm.

- Người Trung Quốc phân loại mơ theo nhiều tiêu chí khác nhau. Theo trạng thái sinh trưởng thì có dã mai và gia mai, theo công dụng có thực dụng mai và thưởng dụng mai. Theo phả hệ loài có chân mai (mai thật sự) và hạnh mai (các dạng lai ghép với cây hạnh[2]). Theo kiểu cành có trực chi mai (mơ cành thẳng), thùy chi mai (mơ cành rủ) và long du mai (mơ rồng lượn).

*Sử dụng*

Nước quả
- Nước ép từ quả mơ được rút ra bằng cách ngâm nó với đường. Tại Trung Quốc, nước quả mơ chua (酸梅汤: toan mai thang)ảnh được làm từ mơ hun khói (乌梅: ô mai tức mơ sẫm màu). Nó có màu từ cam ánh hồng nhạt tới đen ánh tía và thường có vị hơi mặn và hơi khói. Theo truyền thống nó được tăng thêm hương vị bằng hoa mộc tê (Osmanthus fragrans), và được uống ở dạng lạnh trong mùa hè. Nước quả sản xuất tại Nhật Bản và Triều Tiên, làm từ quả mơ còn xanh, có vị ngọt và hương thơm, được coi là đồ uống giải khát trong mùa hè. Tại Triều Tiên, nước quả maesil, được tiếp thị như là loại đồ uống bổ dưỡng, ngày càng trở nên phổ biến. Nó được sản xuất ở quy mô công nghiệp dưới dạng xi rô đậm đặc có vị ngọt chứa trong các bình thủy tinh; được hoàn nguyên để dùng bằng cách khuấy một chút xi rô trong cốc nước. Xi rô này cũng có thể làm tại gia bằng cách lưu trữ một phần maesil tươi trong bình chứa với một phần đường (nhưng không có nước). Tương tự ở Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên, nước xi rô làm từ mơ ngâm đường là thứ đồ uống khá thông dụng trong mùa hè ở miền Bắc Việt Nam.

Rượu mùi
ruou_mui_mo
Rượu mùi
- Rượu mơ, hay vang mơ, khá phổ biến tại Nhật Bản và Triều Tiên, cũng được sản xuất tại Trung Quốc.[3] Umeshu (梅酒,: mai tửu) tức là rượu mơ, đôi khi gọi là "vang mơ") là một loại đồ uống chứa cồn của người Nhật được làm bằng cách ngâm các quả mơ còn xanh vào trong shōchū (燒酎, thiêu trữu: một dạng rượu gạo của Nhật Bản).photo Sau khi ngâm nó có vị ngọt và êm. Hương vị của umeshu có thể hấp dẫn cả những người mà thông thường không thích uống rượu. Loại rượu mùi tương tự ở Triều Tiên, gọi là maesil ju (매실주: Mai thực tửu), được tiếp thị dưới nhiều tên gọi thương phẩm khác nhau như Mae Hwa Su, Mae Chui Soon, Seol Joong Mae. Các dạng rượu mơ của Nhật Bản và Triều Tiên đều có loại chứa nguyên quả mơ trong chai.photo

- Tại Trung Quốc, rượu mơ được gọi là 梅酒 (mai tửu). Nó có màu đỏ.

- Tại Việt Nam có một số loại rượu mùi khá nổi tiếng làm từ quả mơ như: Rượu mơ Núi Tản, Rượu mơ Yên Tử, Rượu mơ Hương Tích...

- Tại Đài Loan, sự cách tân phổ biến theo phong cách Nhật Bản của umeshu kể từ sau Đại chiến thế giới lần thứ hai là ô mai tửu (烏梅酒), được sản xuất bằng cách trộn mai tửu (梅酒), lí tửu (李酒: tức rượu mận) với rượu từ trà ô long.[3]

Mơ muối và mứt mơ
mut_mo
Mứt mơ
- Umeboshi (梅干), hay mơ muối (mơ ngâm), là một đặc sản của người Nhật. Được tạo hương vị bằng muối với lá shiso (tía tô, Perilla spp.), nó có vị khá chua và mặn, và vì thế chỉ nên ăn một cách vừa đủ. Umeboshi nói chung được ăn cùng cơm như là một phần của bento (弁当 hay べんとう), mặc dù nó có thể dùng trong makizushi. Makizushi chế biến cùng mơ có thể làm từ umeboshi hay bột nhão umeboshi, thông thường cùng với lá tía tô xanh. Phụ phẩm trong sản xuất umeboshi là dấm umeboshi, một loại gia vị có vị chua và mặn. Trong ẩm thực Trung Hoa, mơ ngâm dấm và muối gọi là toan mai tử (酸梅子), và nó có vị chua và mặn tương tự như umeboshi.

- Thoại mai (话梅, huàméi), là tên gọi để chỉ chung một số loại thực phẩm của người Trung Quốc trong đó có mơ ngâm với đường, muối và một số loại thảo dược khác như cam thảo.photo Nói chung có hai dạng thoại mai: dạng khô và dạng ướt (ngâm dầm). Tuy nhiên, hương vị và cách chế biến thì có sự khác biệt lớn giữa các khu vực.


omai_mo
Omai mơ
- Trong ẩm thực Việt Nam, dạng mơ khô tương tự như vậy gọi là ô mai hay xí muội .photo, một món mà thanh thiếu niên rất thích, đặc biệt là nữ giới. Có lẽ ô mai gắn liền với thiếu nữ nên có nhà văn đặt ra cụm từ "tuổi ô mai" để chỉ những cô gái mới lớn. Còn từ "xí muội" có nguồn gốc từ cách phát âm trong tiếng Quảng Đông của từ "toan mai" [4](mai chua).

Nước chấm
- Một loại nước chấm đậm đặc và ngọt của người Trung Quốc gọi là mai tương (梅酱) hay mai tử tương (梅子酱)photo được làm từ mơ, cùng với các thành phần khác như đường, dấm, muối, gừng, ớt, tỏi. Tương tự như toan mai tương (酸梅醬), nó cũng được dùng như là gia vị cho nhiều món ăn của người Trung Quốc, bao gồm các món từ thịt gia cầm và món 蛋卷 (đản quyển tức trứng cuốn).




*Y học*

- Trong y học cổ truyền Trung Hoa, quả hun khói, gọi là ô mai (乌梅), được dùng cho một số mục đích y học. Nói chung nó có màu đen, được coi là có hiệu quả trong chống các dạng ký sinh, cũng như có tác dụng chống loét và cải thiện hệ thống tiêu hóa và tim mạch.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn